Translate

Tuesday, October 4, 2016

LỜI MỞ ĐẦU



                


 

  LỜI MỞ ĐẦU


              Thơ văn là dòng chảy của tâm hồn bằng chữ nghĩa. Những cảm xúc bật ra từ những trăn trở của cuộc sống trong đủ mọi dạng của tâm thức.Qua thơ văn dáng dấp của tác giả ẩn hiện trong từng tác phẩm có khi ít, có khi nhiều.Tất cả là một hòa nhập của cuộc đời lăn chảy vào chữ nghĩa trong tận cùng hơi thở và nhịp đập của con tim: Những khao khát một tình tự dân tộc, một tình nhân ái thực sự giữa người và người với nhau trong đại gia đình Việt Nam toàn vẹn, phát triển trong Độc Lập, Tự Do và Dân Chủ.
              Và dĩ nhiên về nội dung cũng như hình thức khó tránh khỏi thiếu sót trong vài khía cạnh nào đó qua cảm nhận của mỗi người đọc. Kính mong quý vị rộng lượng tha thứ cho.

Kẻ Đào Huyệt là một tập truyện thật dài hơi…
Nó bị treo cổ khi mới hình thành tập bản thảo đi kiểm duyệt năm 1970.
Nó bị thất lạc và cuộn mình trong nhiều ngày tháng dài trăn trở.
Nó được bồi đắp qua dòng lịch sử chiến tranh và hết chiến tranh.
Tập truyện “Kẻ Đào Huyệt” cuối cùng được tiếp nối và kết thúc trong bối cảnh đời tha hương.
HUỲNH TÂM HOÀI






Kính dâng lên hương hồn ba má.
Chia sẻ những ngày tháng trôi qua với vợ và các con.
Chia sẻ với các em thương yêu.
Chia sẻ cùng các đồng đội cũ còn sống và lưu nhớ những đồng đội đã nằm xuống trong cuộc chiến cũng như trong các trại tù « Cải Tạo » của Cộng Sản sau ngày 30-4-1975.



ĐÔI DÒNG GHI NHỚ MỘT NGƯỜI BẠN THÂN

And Hiệp !Xin gởi đến hương hồn anh tập truyện « Kẻ Đào Huyệt » đã hoàn thành như sự nhắc nhở của anh….Bây giờ thì…không còn anh na, không còn những khi ngồi trò chuyện văn thơ….xin thắp nén nhang lòng cầu hương hồn anh sớm siêu thoát nơi miền cực lạc. HTH.
 E-Mail của bạn Nguyễn Bạch Dương

Anh Lê Trung Hiệp, anh còn có tên Nguyễn Kim Dũng, là người bạn thân thiết có nhiều kỷ niệm với tôi sau năm 1975. Thật ra tôi với anh của anh Hiệp là Đ/U Lê Kim Hùng mới là bạn cùng quân ngũ.Tôi làm Quản Lý Bệnh Viện Tiểu Khu Bạc Liêu, anh Lê Kim Hùng làm Phát Ngân Viên Đại Đội Hành Chánh Tiếp Vận Bạc Liêu.Tôi và anh Hùng đi tù cùng chung trại. Tôi về trước anh vài tháng. Sau nầy khi về lại gia đình anh bị bịnh chết. Tôi biết anh Hiệp từ dạo đó và thân nhau trong tình cảm anh em văn nghệ với nhau. Anh Hiệp trước đây sống bằng nghề giáo và làm báo. Anh có thơ đăng trong các tạp chí tại Sài gòn trước năm 75 như: Văn, Văn Học, Khai Phá, Trình Bày, Biểu Tượng, Thời Nay, Thời Báo….và đã xuất bản các tập thơ: Bí Mật của bé (thơ thiếu nhi), Lặng lẽ vần thơ yêu em, Thơ Anh và Tình em, Hoàng, Sau Cơn Địa Chấn. Anh mất năm 2008 vì bịnh ung thư phổi tại Sài Gòn.

Anh Huỳnh Tâm Hoài thân mến,
Vua nhan duoc qua cua anh, rat cam on, toi con lay lat den ngay hom nay la nho thuoc, chu yeu la truyen dich va dam, cu 3 hom 1 lan, co tien lo thuoc men, phan lon la nho anh em giup do (trong do co anh) chuyen viet lach cua toi dao nay cham lai. Du dinh chon mot so bai de in 1 tap tho ma cu lan lua mai. Phan anh da co tron viet chua? Nho co suc viet lai de anh em cung doc nhau cho vui. Hom roi anh Ngoc da co goi dien hoi tham toi, duong nhu anh ay vua di Chau Au ve. Toi bay gio nhu con cua gay ngoe nam yen mot cho chang di dau duoc. Ca ngay loanh quanh trong nha voi con dau nhuc vo chung, viet thu co anh chi cu ma phai nghi hai ba lan. Toi van luon mong cho de doc tac pham cua anh nhu nhung ngay xua, anh em minh luon doc cua nhau. Con tap “ke dao huyet” nen tiep tuc dao that nhieu tren trang giay cua minh. O ben ay anh nen tim doc cac tap chi: Hop Luu, Van, Khoi Hanh, Van Hoc.
      Lai met roi, xin tam dung nghe anh. Kinh chuc anh chi va
cac chau an vui phat dat.
                                              Nguyen Bach Duong

 Huynh Tam Hoai than men,
            Rat vui khi nhan tin ong. Ong van theo doi cac tap chi ben ay, co gang viet di, mot luc nao do ngoi viet se het set va viet mot cach tron tru nhu truoc day (o cai thoi Chim Viet) Mang tin nay den ong, cach day ba hom toi tuong qua tham ong bang con duong tam linh roi. May nho mot phep mau cua Chua Phat nen toi duoc nan lai mot it thoi gian nua. Nhu nhung thu truoc toi nam tren giuong benh doc cho ba xa toi ghi, nho con danh email gui di. Nho nghe Huynh Tam Hoai viet ..viet.. va viet, cho den luc nao N.B.D khong con co the nhac nho ong duoc nua.
            Chuc gia dinh an khang va nhat la ngoi but dung ngung viet.
                                                           Nguyen bach Duong


*Xin cám ơn bạn Nguyễn  Thành Thụy là một Nhà Thơ-Nhà Văn và là một Kỷ Sư Điện đã hành nghề ở Úc đã bỏ công  sức trong sự bận rộn của mình để hiệu đính cho tập truyện được hoàn hảo hơn.
    “Đọc những  mẩu truyện ngăn ngắn của Nhà Văn-Nhà Thơ Huỳnh Tâm Hoài, tôi có cảm tưởng mình đang du ngoạn qua làng quê miền Nam Việt Nam trước 1975. Với ngòi bút linh động và chân thực, tác giả đã đem lại rất nhiều niềm cảm xúc trong tâm hồn tôi về những nỗi khổ của dân quê thời ấy và những tình cảm thành thực của bản tính dân Việt chúng ta”.

   Rất đáng đọc, xin giới thiệu cùng quý vị xa gần.

Nguyễn Thanh Thụy (John Thụy)
Melbourne, Úc Đại Lợi


*Xin cám ơn anh Nguyễn Duy Quang người bạn thân trên diễn đàn Thơ Văn đã trợ giúp thực hiện mẫu bìa của tập truyện.

*Xin cám ơn các bạn hữu xa gần đã khuyến khích để tôi có thêm niềm phấn chấn hoàn thành tập truyện và đem in ấn.



MẬU THÂN TẾT ĐẦU ĐỜI LÍNH



Mậu Thân Tết đầu đời lính

      Tôi được lệnh gọi nhập ngũ khóa 24/SQTB/TĐ khi đang làm việc ở Ty Y Tế Côn Sơn, có lẽ thư từ chậm ra hải đảo cho nên khi tôi về trình diện thì khóa học đã bắt đầu. Tôi được trả lại Côn Sơn tiếp tục làm việc cho tới khi nhận được lệnh nhập ngũ K.25/SQTB/TĐ. Côn Sơn là phần đất bình yên trong một đất nước chiến tranh. Khi nhận nhiệm sở ngoài nầy, tôi nghĩ chắc mình sẽ được lưu dụng làm việc ở đây khỏi phải đi lính. Tôi chưa muốn tham dự vào cuộc chiến lúc nầy, cho nên khi nhận lệnh gọi nhập ngũ, tôi bị hụt hẫng lo lắng. 
Xin bấm đọc tiếp

ĐEM CHI XUÂN ĐẾN GỢI THÊM BUỒN




ĐEM CHI XUÂN ĐẾN GỢI THÊM SẦU


1-          Mặt trời ngả trên hàng cây mờ nhạt. Nắng chen chúc sau đám mây màu xám tối.Mùa đông đang về. Không khí ui ui như sương xuống. Một nỗi buồn hoang vắng nào đó vương vất trên cánh đồng mênh mông cỏ lúa.Những cây lúa mọc hoang từng bụi chen trong đám cỏ lát u du. Có những khoảng trườn dài dấu xích xe. Bên con đê khuất dưới đám cây trăm bầu nổi lên những mô đất. Đây là hầm hố của Việt Cộng hồi sau Tết Mậu Thân. Những dấu xích và hầm hố đó đã hiện lên trăm xa, ngàn cách tình người. Chiến trận hôm nào đến đây đã phanh thây biết bao nhiêu đời sống. Bây giờ tất cả trơ ra quạnh quẽ sầu thương. Mái tranh cửa vắng phên rêu, trước sau hoang tàn đ nát. Người dân sống giữa hai lằn đạn đã lần hồi dồn thúc về phía phố làng, phố quận hay dọc theo những con đường liên quận, liên tỉnh. Chỉ còn một số người ở lại vì nuối tiếc mồ mả ông bà, cha mẹ, miếng ruộng, khung vườn. Họ sống chui rúc đắp đổi qua ngày tháng trong nỗi chết vờn quanh hơi thở.

TRONG NỖI RÃ RỜI



                           TRONG NỖI RÃ RỜI
                          Cho Th/Úy Cần, Bùi, Hữu,Lô,Hùng
              và các bạn ở khu ngoại  khoa  4 T.Y.V Cộng- Hòa năm 1967

       Dòng nước trôi lờ đờ và lặng lẽ. Màu nước đục đen ngòm. Hai bên bờ nước rút để lộ bãi sình đen đầy rác rến đủ loại mắc víu vào các cột cừ làm sàn nhà. Trước đây các cột cừ làm bằng gỗ tạp cây xiêu, cây vẹo lấn ra ngoài mặt sông độ vài thước. Nhưng từ ngày có chiến tranh, người ta đổ dồn về thành phố mỗi ngày mỗi đông. Các sàn nhà thi nhau bò thêm ra ngoài sông. Dòng sông càng lúc càng bị thu hẹp dần.Và để chắc chắn hơn hầu chứa bà con thân thích về sống chung đụn nhau càng lúc càng đông. Các cột đúc xi măng được thay vào các cột gỗ làm trước đây. Hai dãy nhà hai bên dòng sông có nơi như gần đâu đít vào nhau. Nước chảy luồn lẩn dưới chân người. Lấp xấp khi nước lớn và cạn quánh khi nước rút. Một lúc nào đó rất mau, có lẽ dòng sông sẽ mất hẳn, bị lấp đầy. Một nền móng mới sẽ úp chụp lên. Quá khứ về dòng sông chỉ còn là một chuyện kể.

TREO NGANG THÁC LŨ



TREO NGANG THÁC LŨ


1-          Nắng buổi trưa gay gắt dội xuống mái tôn hừng hực. Vũ thức giấc trong một trạng thái mệt mỏi đến như đờ đẫn. Đôi mắt nặng trịch chàng muốn mở ra nhưng cứ bị trì hoãn khó khăn. Một vài tiếng động rời rạc và khô khan.Thật khó chịu! Chàng chửi thề một câu nhỏ. Xoay người lại. Mồ hôi dưới lưng ướt láp nháp như bị trét mỡ. Chiếc ghế bố nhà binh kêu kèn kẹt theo cái chuyển mình của chàng. Gió bên ngoài thổi tạt vào làm chiếc Poncho dùng để che nắng khua nghe phành phạch.Vũ thấy hơi dễ chịu và thíp đi  như mê. Đến khi chợp mắt thì trời đã xế chiều.  Ánh nắng tạt vào nhà. Chàng cảm thấy đôi mắt nằng nặng và hơi nhức. Vũ chớp mắt mấy cái nghe như cay cay, rồi đứng dậy đi ra ngoài, lại gần phi nước, một tay cầm cái ca múc nước, một tay vốc nước úp vào mặt, xoa vào cổ. Một cảm giác nhẹ bổng lâng lâng chạy rần từ cổ xuống lưng và dừng lại ở đó. Vũ uốn người về phía sau một cách khoái trá. Trên bầu trời những áng mây thật mỏng trôi lênh đênh, thỉnh thoảng một vài nơi trộn màu tạp lục. Trong cái bao la của bầu trời, trong cái rời rạc của buổi chiều, Vũ thấy mình như những áng mây trôi lạc lõng trên cao, cũng giống như miếng gỗ lập lờ trên sông. Nước lên xuống như muốn rã tan, như muốn chìm nghỉm xuống lòng sông, đáy nước. Bùn lầy sẽ chôn lấp trong im lìm. Nỗi mệt mỏi và chán chường làm cay đôi mắt, làm khô cứng cổ họng. Chàng thấy mình cô độc trong một thứ hạnh phúc bất chợt đến, tạm bợ chờ tung cánh bay đi. Bao lâu rồi chàng sống trong ngoi ngóp buồn rầu nầy? Vũ thấy như tức giận một cái gì đó mơ hồ không rõ. Chàng muốn xô đẩy, đạp đổ và bương chạy đến bất cứ một dấn thân nào đó, miễn sao thoát khỏi cái căn phần phiền muộn nầy.

NGÀY CUỐI ĐỜI LÍNH



NGÀY CUỐI ĐỜI LÍNH
                                       Viết riêng nhớ đến anh linh Y Sĩ Thiếu Tá  Trịnh-Văn-Tạo
                                                    Y Sĩ Trưởng bệnh việnTiểu Khu Bạc-Liêu

             30 tháng Tư! Cái ngày luôn dội vào lòng những cảm xúc ngổn ngang, buồn đau, tủi hận. Hơn 30 năm trôi qua, nhưng những ngày tháng cởi áo lính trong bàng hoàng, tức tưởi, những năm tháng tuyệt vọng qua các trại tù “Cải tạo” vẫn theo vào trong nhiều cơn mơ và thức giấc trong những giọt mồ hôi ướt áo. Trong cơn tỉnh ngủ chợt thấy ra mình đang sống giữa đất nước tạm dung, đang nằm trên chiếc giường êm ả. Cảm giác buồn một khoảnh khắc qua đi. Tôi thầm nói: “ Ồ! Ta đã được tái sinh hơn 20 năm rồi!” Nhưng lòng tôi vẫn không quên hội chứng đau thương cuộc đời lính của mình qua năm tháng nơi xứ người.
             Ngày ấy tôi ở chức vụ Sĩ Quan Quản Lý kiêm Sĩ Quan An Ninh Bệnh Viện.Vào những ngày chiến cuộc các tỉnh miền Trung dần dà đi đến khúc quanh quyết liệt. Hoa Kỳ ngưng viện trợ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định bỏ miền Trung với ý đồ co cụm lực lượng lại để cố giữ miền Nam trong chiều hướng ngân sách không còn đủ, súng đạn không còn nhiều cho một vùng đất trải rộng quân. Có người cho rằng ông Thiệu giận Mỹ và rút quân như một thấu cáy? cho dù do đâu, nhưng với sự rút quân nầy đã đưa miền Nam đến sự sụp đổ sớm hơn như những dự tính của Cộng Quân!

ÔNG TẬP ĐOÀN TRƯỞNG



ÔNG TẬP ĐOÀN TRƯỞNG

           Tư Lượng sinh ra và lớn lên ở ấp Đầu Giồng nầy từ đời ông tới bây giờ, sống bằng nghề làm ruộng rẫy. Đây là đầu của con giồng của xã Phước-Hưng, có người gọi cho đầy đủ là Ấp Đầu Giồng Phước-Hưng. Phía ngoài con giồng là khoảng ruộng ăn liền với ấp Giồng-Trôm. Ấp nằm trên trục lộ liên quận. Đường xe hơi chạy từ tỉnh lỵ Trà-Vinh vắt ngang qua Ấp Đầu Giồng đi xuống Xã Tạp-Sơn. Từ đây có hai ngã rẽ, đi thẳng ra Bắc-Trang, ngõ quẹo qua Quận Trà-Cú. Từ Trà Cú đi suốt tới Trà Kha, ăn vòng qua Cầu-Ngang, Long Sơn, Long Toàn. Đất gia cư ở  Quận Trà Cú đa số được lập thành bởi những giồng cát hình cong như lưỡi sóng ăn tận ra biển. Đất canh tác ở sâu phía xa sông Hậu là những khoảng đất giữa những con giồng. Nhờ nằm dựa bên nhánh sông Hậu cho nên đất pha cát và phù sa làm thành một vùng đất trộn sốp. Đất ruộng rộng hơn từ phía giáp với sông Hậu như miệt Cầu Kè, Cầu Quan, Bắc Trang, Trà Cú, Trà Kha. Ấp Đầu giồng là đất gia cư nằm sâu, xa sông Hậu . Người dân sống quần tựu trên đất giồng. Đất thì không nở ra mà con cháu thì mỗi ngày mỗi đông đem chia tam chia tứ ra nên nguồn lợi tức con cháu mỗi ngày mỗi hẹp. Cho nên hầu hết cư dân ở đây không bà con gần cũng bà con xa với nhau, có khi xa quá, đàn hậu sanh gọi nhau bằng cô chú, cậu mợ, ông bà mà nghĩ nát óc cũng không biết dây mơ, rễ má từ chỗ nào- nhưng chắc có bà con? Có đứa học hành đỗ đạt không nhận phần cho mình hoặc có đứa bung ra đi làm ăn xa cũng xin nhường phần cho người còn ở lại. Nói tóm lại mọi người nhường nhau để  được sống còn. Ở vùng đất giồng thì đâu có nhiều ruộng lúa canh tác, đa số là những giồng cát trải dài. Phải ở tuốt miệt gần nhánh sông Hậu như Trà-Cú,Tiểu Cần mới có nhiều ruộng và đất màu mỡ hơn.Còn cái ấp đầu con giồng này thì cát là cát,cát nóng rát bàn chân, cát rút nước nhanh như gió thổi, mới tưới qua một bận, trở lại thấy khô queo. Ruộng lúa thì bằng bụm tay và chỉ làm được có một mùa. Cho nên cư dân ỏ đây sống chật vật lắm. Những người sống ở gần chợ thì làm nghề buôn bán và lo cho con cái học hành đỗ đạt tiến thân nơi xứ khác. Tư Lượng vì nhà nghèo chỉ mới học tới lớp nhứt thì thôi học ở nhà lo làm ruộng rẫy giúp gia đình. Hồi đó Tư Lượng phải đạp xe đạp mấy cây số tới Phước Hưng để học. Sau nầy khi có trường tại ấp thì thì Tư Lượng đã có vợ con. Tư Lượng thường nói với mấy đứa nhỏ: “Hồi đó tao đi học vất vả, tụi bây giờ sướng lắm chỉ đi bộ mấy phút là tới trường, phải ráng học cho giỏi để nhờ tấm thân sau nầy. Đất ruộng chỉ bằng cái chiếu lát không đủ sống đâu mấy con!

Đoản Văn