Translate

Tuesday, October 4, 2016

TRONG NỖI RÃ RỜI



                           TRONG NỖI RÃ RỜI
                          Cho Th/Úy Cần, Bùi, Hữu,Lô,Hùng
              và các bạn ở khu ngoại  khoa  4 T.Y.V Cộng- Hòa năm 1967

       Dòng nước trôi lờ đờ và lặng lẽ. Màu nước đục đen ngòm. Hai bên bờ nước rút để lộ bãi sình đen đầy rác rến đủ loại mắc víu vào các cột cừ làm sàn nhà. Trước đây các cột cừ làm bằng gỗ tạp cây xiêu, cây vẹo lấn ra ngoài mặt sông độ vài thước. Nhưng từ ngày có chiến tranh, người ta đổ dồn về thành phố mỗi ngày mỗi đông. Các sàn nhà thi nhau bò thêm ra ngoài sông. Dòng sông càng lúc càng bị thu hẹp dần.Và để chắc chắn hơn hầu chứa bà con thân thích về sống chung đụn nhau càng lúc càng đông. Các cột đúc xi măng được thay vào các cột gỗ làm trước đây. Hai dãy nhà hai bên dòng sông có nơi như gần đâu đít vào nhau. Nước chảy luồn lẩn dưới chân người. Lấp xấp khi nước lớn và cạn quánh khi nước rút. Một lúc nào đó rất mau, có lẽ dòng sông sẽ mất hẳn, bị lấp đầy. Một nền móng mới sẽ úp chụp lên. Quá khứ về dòng sông chỉ còn là một chuyện kể.

         Tú ngồi mấp mé trên sàn gỗ, chân thả lỏng xuống bên ngoài. Một chiếc ghe gắn máy đuôi tôm vừa chạy qua. Chàng nhìn dòng sông nước dạt đùa ra hai bên bờ. Có lúc chàng thấy mình như bị lắc lư. Mùi hôi thối từ dòng sông hắc lên tanh tưởi. Chàng bỗng dưng thấy muốn nôn mửa, nhưng có cái gì đó chận cứng lại ở cổ. Bực bội. Khó chịu. Cái ứ đọng dồn trong cơ thể như sự vướng mắc của cuộc đời. Tú bây giờ không lối thoát như vứt bỏ thừa thãi. Từ ngày bước ra khỏi T.Y.C Cộng Hòa với đôi nạng gỗ. Bây giờ là thằng Tú tật nguyền, thằng vô tích sự, thằng báo đời. Tú muốn quay đầu trở vào nằm lại với bè bạn trong trại. Ở đó chung quanh là bạn bè thương tật, là đồng bạn dừng chân chiến cuộc, là thời khắc nghỉ ngơi trong đau đớn thân thể, là những nỗi buồn bã rã rời! Có những đứa quơ quơ cánh tay cụt, có đứa ngúc ngoắc khúc chân cưa. Đứa ngồi nghiêng ngả, đứa thiêm thiếp hôn mê, đứa nhảy cò cò, đứa ngồi xe lăng. Đứa…Đứa…Tất cả cùng hội ngộ trong bản hợp tấu bi thương cười nắc nẻ khóc v trời. Thằng Cần hét lớn “Trời ơi đau quá, cho tôi xin một phát súng…” Thằng Hữu đưa hai tay ôm chiếc đùi mím môi chịu đựng cho y tá đổ thuốc rửa vào đầu thịt đã bung chỉ, khúc chân phía dưới từ bàn chân lên tới gần đầu gối bị dập nát vì đạp mìn đã bị cắt rời thân thể nó từ hơn một tuần nay.Từng giọt máu chảy thấm xuống miếng vải lót. Đôi mắt nó nhấm nghiền, đầu thịt run run như khúc đuôi con thằn lằn bị đứt ra. Mồ hôi rịn ướt sau lưng. Thằng Hùng vừa mới đẩy từ phòng mổ ra. Mặt tái xanh, đôi mắt nhấm nghiền bởi thuốc mê chưa hết. Người yêu của nó vào thăm khóc thút thít. Những giọt nước mắt lăn chảy nhẹ nhàng. Tú chợt nghĩ không biết cô gái kia có phải khóc thật không? Mấy lúc gần đây Tú đâm ra nghi ngờ mọi thứ. Bởi vậy tình cảm của chàng đâm ra hời hợt và lơ đễnh. Thằng Bùi sinh viên năm thứ hai Văn Khoa bị động viên vào Thủ Đức. Ra trường đổi về Sư Đoàn 21 Bộ Binh được hai tháng, đạp phải mìn của V.C ở Cà-Mau bị cưa cụt hai chân gần tới háng, một tay gần tới nách, còn một tay lăn xe thơ thẩn ngoài hành lang. Nhân diện hóa kiếp dị hình. Người yêu đến gặp một lần để rồi đi mất dạng. Bùi đã tự lăn mình cho rơi xuống đất mấy lần, nhưng chưa chết được. Dần dần với lời khuyên của bạn bè. Nhất là má của Bùi khi vào thăm thường nói với nó “Con ơi! bây giờ má tin rằng con không phải đi lính nữa, con sẽ về ở bên má. Má sẽ lo cho con, con ơi!... .
          Tú ngồi dựa lưng vào tường đưa cái chân cụt lên nhìn. Mũi khâu đã sạch, vết thương đã lành. Có lẽ vài hôm Tú được đưa qua khu chỉnh hỉnh để đo làm chân giả. Ôi đoạn chân của ta bị cắt đi và chắc bị vất vào đống rác thối tha. Đoạn chân mà ta đã chạy trên đồng cùng bọn trẻ trong xóm. Đoạn chân ta nhảy cò cò với đám con gái trong sân lúa. Đoạn chân đạp xe đi học trên đường làng. Đoạn chân được mẹ cha ve vuốt tròng trành trong nôi. Đoạn chân được mẹ đâm lá dăm bụt đắp mụn nhọt. Đoạn chân ngày xa mẹ đi vào đời với lời dặn dò :“Ráng giữ gìn thân nơi xứ người nghe con”. Má ơi! thân thể của con ngày xưa mẹ cha ôm ấp, nâng niu. Mỗi khi trượt ngã, chỉ một vết nhỏ trầy ba má cũng đã  xót dạ xuýt xoa. Bây giờ thân con đã thoát khỏi vòng tay ba má, đã đi vào đời, đã lăn vào cuộc chiến. Má luôn cầu nguyện Trời Phật phò hộ cho con được bình an trong bước đường quân ngũ. Nhưng khi biết được con đã bị mất một đoạn chân. Má nói trong lần đến thăm và an ủi Tú: “May cho con tôi còn sống, mất một đoạn chân không sao đâu con! biết bao nhiêu người chết mất xác! “Ôi nỗi chịu đựng của má cũng như không biết bao nhiêu sự chịu đựng của muôn người mẹ Việt Nam trong quê hương chiến tranh nầy. Tất cả cam lòng cúi mặt. Đến bao giờ cho lòng mẹ “Bao la như biển Thái Bình” được ôm các con của mình từ muôn chiến trường về.?!
           Chiều tối mà Hùng vẫn chưa tỉnh. Thằng Lô lăn xe đến bên giường Hùng đưa tay vào mũi nó để xem nó còn thở không? Thằng Cần nói: Nó cũng gần tỉnh rồi, ba lần mổ, chắc lần nầy đánh thuốc mê hơi nhiều. Tú nói vói: Chắc là vậy và chống gậy đi ra ngoài hành lang. Buổi tối T.Y.V yên lặng, đèn vàng lù mù buồn bã. Gió lạnh hơi se se da thịt.Có tiếng chim cú kêu cú cú ở một ngọn cây nào đó nghe rợn người. Bùi ngồi trong một khoảng tối của dãy hành lang hút thuốc. Một vài người đi thơ thẩn trên con đường mù mù như những bóng ma . Tú đến gần Bùi và nói:
           -Đêm ở đây thảm như bãi tha ma.
           -Bọn mình là những bóng ma hiện hình 
           -Lúc trước tao nghĩ nếu bị thương như thế nầy đành chết cho xong! Mày thấy đó tao mấy lần muốn chết mà chết không được. Bây giờ...Bùi thở dài và nói tiếp: Bây giờ  thì thôi!
Tôi thẫn thờ:
           -Chúng ta còn ruột rà thân thích. Chết đâu dễ?
           -Đó là nỗi đau đớn của chúng ta phải cắn răng chịu đựng trong hoàn cảnh buồn  nầy.
           -Chúng ta là kẻ báo đời
           -Ừ là vậy!
           - Chúng ta đang hít thở, nhưng đã chết bên đời.
            Bùi búng đoạn thuốc còn lại xuống mương nước. Buổi tối xuống đen ngòm với vài tiếng dế kêu the thé ở đám cỏ, hình như có mùi hoa sứ thoang thoảng đâu đây.? Trong yên lặng não lòng nầy bỗng ngân lên tiếng sáo trúc bản nhạc “Tiếng Xưa” của Dương Thiệu Tước. Tú hát khẽ theo: Hoàng hôn, lá rơi bên thềm, hoàng hôn… tơi bời lá thu… sương mờ, ngậm ngùi s xanh...bâng khuâng…tím loang bên thềm. Đâu bóng trăng xưa ..rặng liễu mơ màng...phai tàn một thời liệt oanh…ai đó tri âm biết cùng?”.
           Chị Cưỡng đã về. Tú nghe tiếng chị nói chuyện với bác Dốn ở phía trước nhà. Bác Dốn là người cùng quê với Tú. Khoảng sau năm 60 chiến tranh bắt đầu lan rộng. Du kích nổi lên khắp nơi. Các cuộc chạm trán giữa lính Quốc Gia và Việt Cộng ban đầu ở xa xa, càng ngày càng sát làng Quận. Pháo binh được kéo về Quận hai cây 105 ly bắn ì ầm. Bác Dốn bàn với ba Tú:
              -Phải đi à anh Hai. Ở đây có ngày chết không toàn thây đa.
Ba Tú nói:
              -Đi đâu bây giờ anh nhà cửa, ruộng nương của mình bỏ lại cho ai coi đây, đi đâu phải dễ đâu anh!
              -Thời buổi giặc giã hơi đâu mà lo giữ của, ráng giữ lấy cái thân, còn người thì còn của mà anh hai.
              -Đành vậy rồi, nhưng vào thành biết làm gì ăn. Mình quen làm ăn với ruộng vườn rồi. Đi vào đó chắc chết đói!
              -Người ta sống được mình sống được hơi đâu mà lo.
Ba Tú suy nghĩ một hồi lâu rồi nói:
              -Thôi anh, tôi quyết định ở lại. Đánh nhau rồi cũng có lúc thôi chớ đánh nhau hoài sao?!
              -Tôi thấy cái điệu nầy chắc còn lâu lắm anh Hai. Nghe đâu Mỹ bắt đầu vô rồi đó Ngoài Bắc thì có Trung Cộng và Liên Sô….Bác Dốn rầu rĩ tiếp : Ôi cái ngữ giặc từ đâu đem tới rồi xúi tụi mình đánh với nhau. Nói rồi bác lắc đầu ra vẻ ngao ngán buồn rầu. So với ba Tú, bác Dốn theo dõi thời cuộc nhiều hơn, nên bác có vẻ rành rẽ. Ba Tú ngồi rê rê điếu thuốc và nhìn ra ngoài cánh đồng lúa mênh mông.
             Ít tháng sau đó gia đình bác Dốn dọn về Quận ở, rồi khi chồng chị Cưỡng đi lính địa phương quân bị tử trận. Sau khi chôn cất chồng xong, chị theo người bà con lên Sài Gòn đi làm công cho tiệm bán hủ tiếu của một người Tàu ở Chợ Lớn. Lần hồi bác Dốn và cả gia đình cùng lên sống luôn ở Quận 6. Nhờ chắt mót, tằn tiện và có đươc vài cây vàng tích lũy. Bác Dốn mua một căn nhà trong cái hẻm dài sâu bên trong, gần sát con sông nhỏ.Sau nầy khi bị động viên đi lính, vào những ngày cuối tuần Tú thường ghé nhà bác Dốn và ở lại đó. Bác rất thương Tú. Bác thường nói với Tú: Cháu nên tự nhiên, bác xem cháu như là cháu ruột của bác. Đi đâu thì đi, hễ về Sài gòn là cứ ghé nhà bác. Hồi ở dưới quê bác với ba cháu coi nhau như anh em vậy. Ở trên nầy ồn ào, lạt lẽo lắm không như ở dưới mình. Giặc giã bây giờ không chừa ở đâu cả. Lên trên nầy tưởng được yên đâu dè cũng ầm ì như ở dưới. Mìn nổ tùm lum, pháo kích tùm lum không biết đâu mà tránh!Biết như vầy thà ở dưới đó. Tú nghe bác than thở mà ngậm ngùi và nhớ làng quê vô cùng. Ôi đường về! Tú nhìn cái chân cụt của chàng và nghĩ ngợi “Ta phải sống thế nào đây trong những ngày tháng sắp tới?!”
            Từ  lúc có nhà riêng chị Cưỡng  không còn đi phụ việc cho tiệm hủ tiếu nữa. Chị nấu chè gánh đi bán trong xóm. Chị nói làm nghề tự do thì có thì giờ cho gia đình hơn và nhất là khỏi bị người ta la rầy. Công việc của chị là sáng thức thật sớm nấu xôi gánh  đến bán trước  một tiệm cà phê ở đầu con hẻm. Trưa về nhà lo cơm nước cho gia đình và nấu một nồi chè cho buổi bán từ xế chiều đến tối. Sau khi xếp gióng gánh vào một góc chị nhìn Tú và hỏi:
                -Hôm nay có chuyện gì mà trông Tú ngồi buồn hiu vậy?
                -Ngồi ngoài nầy cho mát…và Tú ngập ngừng. Cưỡng cười và nói:
                -Và nhớ nhà chứ gì?
 Tú gật đầu và nói:
                 -Ờ Tú đang nhớ nhà và nghĩ về tương lai của mình. Với cái thân tật nguyền nầy không biết rồi sẽ ra sao?! Và làm gì để sống?
                -Tú đừng buồn, mọi việc rồi cũng đâu vào đó. Hồi khi Cưỡng mới lên trên nầy, thấy cũng khó khăn lắm, nhưng từ từ rồi mọi thứ cũng xong. Trời sanh voi, sanh cỏ mà Tú. Tú nhìn chị Cưỡng và thầm nghĩ chị là con người rất có nghị lực và rất đơn giản. Chồng mới chết một thân một mình lên Sài Gòn sống. Hôm nay với tài xoay sở của chị, cả nhà có cơ ngơi như thế nầy quả là đáng thán phục. Tuổi gần 30, nhưng trông thấy chị còn rất trẻ. Khuôn mặt chị lúc nào cũng ánh lên sự vui tươi và đầy tự tin. Có lúc Tú hỏi:
                  -Sao chị không tái giá?
Chị cười và lắc đầu:
                 -Ở như vầy sướng hơn Tú ơi!
 Tú nghĩ, tuy nói vậy chứ Tú thấy trong chị chắc vẫn còn một nỗi ước ao thầm kín nào đó chị còn trẻ và với sắc diện còn đầy mặn mòi, chị làm sao tránh khỏi những bướm ong. Chị đang chờ thôi!? Trong ý nghĩ đó vô tình Tú đăm đăm nhìn chị. Cưỡng ngước mặt về hướng Tú. Thấy Tú nhìn mình, chị bẽn lẽn nói:
                 -Tú đói bụng chưa…? để Cưỡng dọn cơm cùng ăn cho vui nha? 
                 -Chưa đói lắm …nhưng ...tối rồi ..
Cưỡng đứng dậy và đi vào bếp. Cưỡng hỏi vói:
                 -Vài hôm nữa Tú về quê phải không? Cưỡng nghe ba nói.
                 -Chắc phải về thôi chị. Ở đây hoài làm phiền chị và bác nhiều quá rồi.
                 -Tú đừng nói vậy có gì mà phiền. Chỗ quen biết chứ xa lạ gì đó mà Tú ngại.

Cưỡng có vẻ buồn buồn vì câu nói của Tú. Có lẽ chị cũng nhớ làng quê-với xóm nhà-với liếp cải vườn rau đã bỏ hoang trong lửa đạn. Cũng có thể chị nhớ nấm mồ của chồng chị ở đó bây giờ có còn không hay đã bị bom đạn cày xới mất rồi? Từ cái máy cassette của nhà bên cạnh vừa phát lên: “Người chết hai lần thịt da nát tan” Cưỡng ứa nước mắt “Anh ơi! Anh có chết thêm một lần nữa không?Nhang khói nào đâu cho phần mộ bỏ hoang. Em bây giờ xa cách bên trời. Hồn anh có đi tìm em không? Em hứa với lòng khi nào yên chiến tranh em sẽ về quê lo vun đắp lại phần mộ cho anh. Sống ở giữa đô thành bon chen giả trá nhiều hơn chơn chất nầy làm em sợ quá anh ơi!
             Sau bữa cơm Tú lại ra phía sau ngồi hút thuốc và nhìn dòng sông về đêm lấp lánh ánh đèn từ các ngôi nhà dọc theo hai bờ sông hắt xuống làm những khoảng tối sáng không đều .Bên trong nhà sáng lòa. Bóng chị Cưỡng hắt lên vách, mái tóc dài của chị làm một vệt đen che lấp khuôn mặt. Chị đang đứng quay lưng về phía Tú. Ánh đèn làm thân hình chị lộ ra mờ ảo sau lớp áo mỏng những đường cong tuyệt đẹp. Tú ngẩn ngơ nhìn chị không chớp mắt. Chị quay lại nói: Về dưới ấy thỉmh thoảng lên đây chơi nghe Tú?Tú nói: chắc là vậy. Chị Cưỡng vói tay lấy cái khăn và bộ đồ máng ở cái móc trên vách. Chị đi vào buồng tắm gần đó.Tú nghe chị dội nước xào xạc bên trong sau đó. Hình như Tú vừa trải qua một cơn cảm xúc nhẹ nhàng.
            Đêm hôm đó Tú nằm trằn trọc mãi đến quá nửa khuya. Một lúc nào đó Tú chìm đi trong giấc ngủ say vùi. Chàng nằm mơ thấy chị Cưỡng cùng Tú về quê trên chiếc xe đò. Khi xuống xe bác Dốn đi trước, chị Cưỡng dắt tay Tú đi trên con đê cỏ mọc xanh rì. Hai bên đường là đồng lúa, có vài miếng ruộng đã trổ đòng đòng. Chim bay lượn dập dìu. Gió mát thổi lồng lộng. Khi vào tới xóm bà con chạy ra mừng đón rối rít. Tú bước vào căn nhà cũ của mình. Khi bước vào tới ngạch cửa Tú thấy bên trông hoàn toàn xa lạ. Tú nhìn ra phía sau thì không thấy bác Dốn và chị Cưỡng nữa, hình như không còn thấy ai hết. Mồ hôi rịn đầy áo. Tú quay quắt nhìn mọi phía, chỉ còn trơ một mình. Tú bước lùi lại thì Tú không thể nào lùi được vì một màng lưới đan dầy ở khắp phía. Lựu đạn giăng mắc đầy trên từng mắt lưới. Chàng hốt hoảng chạy ra phía trước, cũng không được. Bây giờ màng lưới bao vây  khắp mọi nơi. Tú la cầu cứu “Ba má ơi! bác Dốn ơi!chị Cưỡng ơi!. Chàng vụt thoát chạy, nhưng lựu đạn mắc dính quanh người, tiếng nổ-ầm-ầm vang lên. Chàng thấy tê cứng rã rời. Máu trong người chàng tuôn ra, chàng kiệt quị. Chàng la hốt hoảng…Chị Cưỡng vén mùng hỏi:Tú ơi! Tú ơi! Làm gì mà la dữ vậy. Tú vụt ôm chầm lấy chị. Vì không dè trước, chị bị ngã chúi vào và nằm trong vòng tay của Tú. Chị Cưỡng ú ớ…Tú!..Tú ơi!..làm gì vậy?… Đừng!… Đừng!... Cưỡng mềm nhũn nằm yên trong vòng tay cứng ngắc của Tú. Một lúc lâu, chị thấy mình như muốn rã rời ra từng mảnh. Đêm trở đời xuống mau trong những giọt tình ấm áp rót vào thân.
                      *********************
          Sài  Gòn..Tháng..Năm 1971.
          Các bạn thương mến của tôi,
          Nhân vật Tú là một người nào đó lẫn lộn, chung đụng với chúng ta trong khung Bệnh viện. Tôi đã sống những ngày buồn vui với các anh trong T.Y.V Cộng Hòa cũng với những thương tích do cuộc chiến nầy gây ra. Cái may mắn của tôi là vẫn còn vẹn toàn khi bước ra khỏi cổng Bệnh Viện. Từ ngày trở lại đơn vị đến nay, tôi có ý muốn ghi lại những hình ảnh kỷ niệm khắc sâu vào tâm khảm tôi trong những ngày ở trại Ngoại Khoa 4, những người bạn khắp 4 vùng chiến thuật đã trở về đây với thương tích trên xe Hồng Thập Tự hoặc trên từng chuyến trực thăng “Sơn màu tang trắng” nửa đêm khuya-hay bình minh sớm- từ mọi chiến trường về đây.Tôi e sợ mình không đủ ngòi bút để diễn tả cho đúng, cho đầy đủ ở cái khung của T.Y.V nầy. Tôi cố gắng ghi lại đây như một nỗi nhớ, một kỷ niệm, có dịp chúng ta đọc lại để nhớ nhau. Chúng ta cũng như Tú đều ao uớc có cuộc sống yên vui trong một đất nước thanh bình. Chúng ta ra đi chiến đấu cho cái ước vọng đó.Thế nhưng cho tới thân tàn ma dại mà vẫn chưa đong đầy bụm tay hạnh phúc. Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt hơn và bọn người ăn trên, ngồi cao vẫn ung dung nhàn hạ. Chỉ có riêng chúng ta, những người trẻ bị cuốn hút vào chiến tranh. Chúng ta không có quyền chọn lựa!   
          Trong những ngày trốn cái không khí buồn bã trong bệnh viện. Chúng ta đi ra phố với chiếc xe lăn, với đôi nạng gỗ, với khúc bột quấn trên thân, trên tay, trên chân. Chúng ta mới thấy được nỗi lạc loài khủng khiếp. Tôi còn nhớ đêm Noel-chúng ta lẫn lộn với đám người thành phố. Họ đi đứng hí hửng vô tâm. Chúng ta âm thầm đi bên họ như những hình nhân xa lạ. Hùng chửi thề, Lô hát nghêu ngao, Bùi ngồi trên xe lăng im lắng, Hữu khổ sở cò cò với cặp nạng khua lộp cộp. Tôi cố đẫy một lúc hai chiếc xe lăn. Có ai ngó ngàng đến chúng ta đâu!. Những ngày ở trong bệnh viện chúng ta cố vui để khỏa lấp cơn buồn. Những giọng ca của các em gái như Liên dịu dàng tha thiết, của Ánh mật ngọt êm đềm, của Thu bùi ngùi da diết, của…của những người em tinh thần cứ mỗi chúa nhựt vào hát đầu giường. Xin có lời cám ơn các em có trái tim tình người. Xin nhớ bạn bè đã có những ngày qua thương cảm vô cùng!.
                                      ( Sài Gòn mùa hè năm 1971)



No comments:

Post a Comment

Đoản Văn