TÔ CANH NẤM MỐI
Qua
giữa tháng Năm chôm chôm chín rộ. Chị Năm thức sớm lo nấu cơm. Khói nhà bếp pha
trộn sương sớm là là quanh khu vườn nhà. Tiếng gà gáy đã tạnh. Đàn vịt xiêm rời
tổ dẫn đàn con chim chíp ra vườn sau. Con chó mực sủa gâu gâu khi chị phụ việc
bước vào sân nhà kêu “chị ơi! em tới”. Má ngồi bên chiếc bàn tròn nhà
trước vừa nhai trầu vừa nói: “Vô đi Hai,
chị Năm mầy ở nhà sau”. Anh Năm
thì lục đục dưới xẻo mương lo đổ thêm dầu vào máy ghe và bỏ những cần xé xuống
khoang. Tôi cũng thức sớm ngồi uống tách cà phê tự pha. Hai thằng con trai đứa
lên bốn, đứa lên năm còn ngủ say. Đứa con gái mới sinh vài tháng oa oe khóc. Vợ
tôi ru khe khẽ. Mùi hương thơm hoa bưởi hoa cam theo cơn gió len vào mái lá
thơm ngào ngạt. Con chim chìa vôi vừa hót chuyền trên nhánh cây xoài tượng phía
trái trước nhà. Vợ tôi ra khỏi giường khi đứa con nhỏ ngủ lại hỏi tôi: “Hôm nay anh muốn đi hái chôm chôm với anh
Năm hả?”. Tôi nói: “Ừ! Đi phụ với anh
chị Năm cho vui, nằm nhà buồn quá”.
Từ
ngày về đây đến nay gần hai tháng, tôi chỉ quanh quẩn quanh nhà, bứng vài cây
chuối con trồng ở khoảng đất trống bên hè, đem nhánh mận hồng đào đá chôn xuống
đất ở phía sau nhà. Phần lớn trong ngày là nằm võng ôm con hát, bắt hoàn từ tân
nhạc qua vọng cỗ....
“ Đâu bóng trăng soi
Rặng liễu mơ màng
Cung đàn nhỏ lệ tầm dương
Ai đó tri âm…biết cùng…(Đêm
Tàn Bến Ngự)
Rồi
qua vọng cổ.
“Còn nước mơ màng mây vẩn vơ
Thì còn lão với một con đò
Có tiền mua lấy vài chai rượu
Nhấp rượu xong rồi lão nói… thơ…
“Lênh đênh trời rộng sông dài
Đò ngang một chuyến lần hồi sớm trưa
Chiều rồi, nghỉ một chuyến đưa
Nằm nghe lá rụng như mưa trên đò
Cơm ngày hai bữa cầu no
Dám đâu bàn chuyện cơ đồ viển vông
Đời nầy có cũng như không
Sớm còn tối mất bận lòng mà chi
(Ông
lão chèo đò)
Quen sống ở chợ, về đây buồn hiu,
buồn hắt…Nhưng được một nỗi là ổn định lại tinh thần sau những năm bị dồn ép,
cưỡng chế tinh thần…Tôi bây giờ mất hướng tương lai! Tôi cố thu mình lại và bặt
đuờng liên hệ với mọi người quen và bạn bè. Về đây tôi tịnh khẩu, tịnh đời với
vườn cây tươi mát. Với thiên nhiên trầm lắng…Tôi sống với nội tâm nhiều hơn. Thỉnh
thoảng ngồi viết vài bài thơ như là một hình thức thả buồn theo chữ - thả tâm vào vần. Có lúc tôi nghĩ: “Mình như một cư sĩ ẩn thân?” Một Lã Vọng
ngồi câu cho mãn kiếp!
Bước
rẽ xoay ngang một nửa đời
Mịt
mù phía trước nẻo buông trôi
Đồng
vọng trống chiên hồi tịnh bặt
Phía
sau khói nhạt bóng dòng trôi…
Con nước đã đổ vào xẻo nhỏ dâng lên
cao. Chị Năm đem các vật vụng cần thiết đặt xuống khoang ghe. Má quấn chiếc
khăn sọc đỏ quanh cổ, xách chiếc giỏ trầu đi về phía chái để ghe. Tôi cũng rời
nhà đi về hướng ấy. Giờ nầy chắc Cậu còn ngủ vì đêm qua nửa khuya tôi nghe Cậu
ho hơi nhiều. Dạo nầy Cậu ít đi qua Cồn, mọi việc vườn tược anh chị Năm thay thế.
Chích, em người em vợ sinh kế vợ tôi đi theo chồng làm việc ở miệt Trà Ôn. Vợ
chồng lục đục…em buồn ẵm con về ở với cậu má được vài tuần…chắc cũng còn ngủ với
thằng con trai trong phòng. Em ít nói, hình như em có tâm sự buồn lắm, nhưng vẫn
giữ kín không nói ra với ai. Cậu má cũng buồn vì đứa con út có chồng không hạnh
phúc.
Chiếc ghe được anh Năm chóng ra sông.
Đám lục bình nở bông tim tím dạt ra hai phía. Gió lùa mặt sông đưa một vạt mát
phả vào mặt vào thân lành lạnh. Chiếc máy ghe bắt đầu nổ. Anh Năm nâng đầu máy
lên, chiếc đuôi tôm quậy nước kêu rồ rồ trên mặt nước, anh nhất cao tay cầm
thêm…cánh quạt đẩy chiếc ghe nhỏ đi tới dần. Sóng dạt hai đường gợn cao. Bầy vịt
xiêm đang lội nhấp nhô theo lượn sóng, kêu chim chíp. Chiếc ghe ra Vàm Kinh.
Tôi ngồi trước mũi ghe nhìn con sông Cổ Chiên rộng lớn phản chiếu ánh nắng hồng
hào như mặt gương. Chiếc thuyền câu của ai đó còn neo đậu ở một góc phía trái
miệng Vàm. Tôi thấy lòng mình phiêu phiêu chan hòa với buổi bình minh rực màu
tươi mát. Dạo trước có mấy lượt qua Cồn nhưng tôi đi với cái cảm giác bâng quơ
vì ít ngày lại đi. Bây giờ tôi nghĩ...rồi mình sẽ có nhiều dịp đi và sống với
dòng sông nầy từ đây. Tôi ngoái đầu nhìn lại cửa Vàm Kinh như chiếc đăng lớn sẽ
đón nhận lúc tôi lúc về với căn nhà cùng ba đứa con trong tuổi còn khờ dại. Tụi
nhỏ lớn lên sẽ tập làm vườn, làm ruộng…khác với đời sống của tôi lúc trước. Một
chuỗi đời mới sẽ bắt đầu từ đây….
Chiếc ghe vượt qua sông lớn, đi vào
xẻo nhỏ len lỏi mấy khúc trái, ngang. Chiếc ghe tấp vào cạnh chiếc cầu dừa. Tôi
phụ mang các vật dụng lên chiếc chòi lá nhỏ gần đó. Hôm nay anh chị Tư cũng đến
phụ hái chôm chôm. Anh chị vừa đi lại từ phía căn nhà cách đây một mương vườn.
Thấy tôi, chị Tư cười và nói: “Dượng Sáu
hôm nay cũng đi phụ bẻ trái há...”. Anh Tư cười mỉm: “Chiều nay tôi với dượng làm vài xị nghe”. Chị Tư lườm anh. Má lấy
tay quẹt miệng trầu. Má cười với môi trầu đỏ ao nhìn anh Tư và quay sang nhìn tôi.
Mọi người bắt đầu công việc đi hái
trái. Những nhánh chôm chôm oằn say với những chùm đỏ ao. Có nhánh quá nhiều
trái, phải có cây chỏi để khỏi bị gãy nhánh. Anh Năm chỉ cho tôi bẻ trái sà thấp,
còn anh thì dùng chiếc cây dài có đầu kéo cắt nhành trái. Anh đưa nhánh chín
vào khớp kéo…anh giựt sợi dây cho chiếc dao cắt nhánh. Chùm chôm chôm chín dính
vào ngàm. Anh đưa cần cắt trái xuống gần mặt đất nhả ra. Chị Năm và người phụ
việc nhặt đem gom thành đống và lựa trái bỏ vào cần xé. Đôi lúc anh Năm phải
leo lên thân đây để bẻ trái. Tôi chỉ đi quanh quẩn từ gốc nầy qua gốc khác bẻ
những chùm chôm chôm xà ngang mặt. Vườn rộng có hơn chục công, gồm ba liếp dài
từ bên nầy cồn chạy tuốt qua ngang bên kia Cồn. Cây nào cũng đầy trái. Trong
lúc lần mò theo cây hái trái, tôi thấy một quả mãng cầu ta rớt trên mặt đất phủ
đầy lá rụng gần gốc cây chôm chôm tàn rất rộng, quả mãng cầu chín bị chim ăn một
góc. Là dân chợ tôi đâu đành bỏ qua. Tôi men đến để nhặt lấy với ý sẽ đem về
ăn. Trong khi bước tới gần, chân tôi đẩy dạt lớp lá khô, con kiến đen to cắn
vào ngón chân buốt đau nhói óc. Tôi ngồi xuống bóp ngón chân cho đỡ nhức. Một
nhúm nấm gì đó cọng to bằng ngón tay út nhô lên khỏi mặt đất với phần trên như
chiếc dù nhỏ chưa mở rộng. Tôi nghĩ chắc là loài nấm dại. Bầy kiến đem túa ra.
Tôi đành đứng lên bước ra xa đám kiến vì sợ chúng cắn nữa. Tôi đành bỏ ý định
nhặt quả mãng cầu đem về.
Gần xế trưa tôi và anh Năm
dùng đòn khiêng gánh những cần xé chôm chôm gom về chòi lá. Tôi thấy đói cồn
cào vì sáng tới giờ tôi chỉ ăn vài quả chôm chôm. Mọi người vẫn còn làm việc.
Tôi cũng ráng bóp bụng đói, phụ với anh Năm. Má nói: “Thôi nghỉ làm…vào chòi ăn cơm…chắc thằng L nó đói rồi đó”. Tôi đói meo nhưng vẫn không dám nói gì cả. Anh chị Năm
và mọi người rửa tay dưới bờ rạch. Tôi thì vói tay rửa ở mương nước. Mọi người
vào chòi ăn cơm. Buổi cơm với ít mắm chưng và tô canh nấm. Tôi thấy sao tô canh
nấm giống nấm mình thấy hồi nãy.Tôi cầm chiếc muỗng chan canh nấm vào chén cơm.
Tôi bưng chén đưa vào miệng húp. Ôi! nó ngọt ngào thơm dịu, cọng không dai mà
giòn giòn. Tôi nhai nhai cơm hòa với nấm, nó ngọt hơn nấm rơm và có mùi thơm
thơm mà tôi chưa bao giờ nếm qua. Tôi lùa thêm một chén nữa… Mồ hôi ra ướt áo dầm
dề. Tôi hỏi má: “Nấm nầy là nấm gì hả má”.
Má nói: “đó là nấm mối...khó kiếm lắm
đó…hên lắm mới tìm ra được. Chị Tư mầy kiếm được một nhúm hôm qua để dành nấu
canh đó”. Tôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Má
ơi! hồi nãy còn thấy nấm nầy mọc dưới lớp lá khô gần gốc cây chôm chôm già, con
tưởng là nấm dại”. Chị Tư cười nói:”Vậy
là dượng hên lắm mới tìm được đó. Lúc rảnh nhớ lặt về cho Sáu Chích nấu canh ăn
nghe dượng”. Tôi định bụng khi xong việc sẽ ra chỗ đó hái nấm đem về. Gần xế
chiều, khi công việc gần xong. Ghe mới tới cân và đổ xuống ghe lớn. Tôi tha thẩn
ra chỗ cây chôm chôm già hái nấm. Lần nầy tôi dùng nhánh khô quẹt lá vẹt sang
môt bên… đập đập cho đàn kiến chạy đi xa và nhặt nhanh một rổ nấm mối đem về
chòi. Chị Năm nói: “Chà …nhiều quá…dượng
hên quá tời (trời)…”. Chị Năm
nói chữ tr không được…hình như một số
người vùng Chợ Lách nói y như chị. Tôi hay nói giỡn với chị “Con tâu tắng...nó nằm ở bụi te”. Chị cười
chứ không bao giờ giận tôi. Chị nói: “Ở xóm chị ai cũng nói như chị”.
Chiều tối đó tôi về khoe với vợ là
đã tìm được nấm mối. Vợ tôi ngạc nhiên hỏi: “Đâu… đâu…cho em coi”. Tôi bưng rổ nấm để lên bàn. Vợ tôi nói: “nấm nầy ăn ngon lắm…mà khó tìm…phải nặng
bóng vía mới tìm được”. Tôi nghĩ chắc vì ít gò mối nên khó tìm chứ nặng
bóng hay hên gì đâu. Mỗi mùa chôm chôm chắc năm nào cũng có nấm ăn mà…Vợ tôi
nói: “Mai em ra chợ mua ít thịt về bầm nấu
canh ăn. Ở bên Cồn chắc anh ăn canh ròng nấm không chứ gì? Tôi nói sao em biết…”Tôi
chợt nghĩ mình hỏi hơi kỳ…Vợ tôi là dân vườn từ nhỏ mà sao không biết được.
Đúng như lời nói, hôm sau vợ tôi nấu
một nồi canh nấm với thịt nạc bầm. Một nhúm thịt kho mặn. Chúng tôi có một bữa
ăn ngon miệng. Hai thằng con nhỏ mút cơm chan canh nấm ăn vã mồ hôi trán. Tôi
nhìn chúng nó với lòng thương cảm vô cùng.Tôi nghĩ đây là lần đầu chúng mới ăn
loại canh nầy vì hồi ở bên nội chỉ ăn canh nấm rơm thôi.
Rồi chúng tôi rời Việt Nam sang định
cư ở nước ngoài cả mấy mươi năm mà chưa có lần nào được nếm mùi vị của nấm mối.
Cái hương vị mà mỗi khi nhớ đến là nước miếng tôi cứ như là muốn ứa ra. Có một
bận về lại Xóm Vàm Kinh, Cậu đã mất, má già còm cõi vì năm tháng. Đứa em gái kế
vợ tôi bồng con vượt biên và định cư tại Canada từ mấy năm rồi. Mấy cháu nhỏ có
gia đình ra ở riêng. Tôi bùi ngùi nhìn khu đất mà căn nhà vợ chồng chúng tôi ở…
giờ chỉ là những cụm cây kiểng. Thời gian hơn mười năm đã trôi qua…người vắng…người
còn.
Thời
gian đã vèo bay hút mắt
Người
xưa cảnh cũ đã đổi thay
Hồn
quê buồn lắng hoài nhung nhớ
Sông
nước mênh mông vẫn lớn đầy…
Trong dịp về quê lần nầy tôi và vợ tôi
qua Cồn thăm gia đình anh chị Tư. Căn nhà anh chị đã cất khá khang trang. Tường
vôi mái ngói. Khi vợ chồng tôi đến thì mấy đứa nhỏ con của anh chị đang nhổ
lông vịt. Chị sẽ nấu nồi cháo vịt, gỏi vịt đãi vợ chồng tôi. Anh Tư dẫn tôi đi
thăm vườn cũ. Ba bờ mương vườn bị cắt đi hơn ba công ở phía giáp bên gần bờ
sông lớn. Lúc đó anh Năm bán lại phần đất nầy cho người kinh doanh nuôi cá tra
để xuất khẩu lấy tiền mua thêm mấy công đất phía sau khu vườn nhà ở. Ba hồ cá với
bờ đất cao làm hụt vào sâu bên trong một khoảng tróng cây xanh thuở trước. Tôi
nhớ mang máng là cây chôm chôm già nằm trong khu đất bán. Tôi thầm nói: “Giàn nấm mối đã bị mất rồi!
Khu vườn chôm chôm còn lại năm xưa cũng
được thay vào các cây nhãn. Anh Tư nói: “Từ
ngày dượng đi đến giờ cậu Năm đã thay mấy lượt cây theo phòng trào: Cà phê, rồi
nhãn, rồi lại chôm chôm…”. Khu vườn bây giờ như tạp chủng. Đi được một đỗi
lâu, anh Tư nói với tôi: “Thôi mình quay
về nhà nhậu nghe dượng…lâu lâu dượng mới về…lai lai cho vui…” .Khi quay về
lại nhà thì chị Tư đã dọn sẵn bàn ăn. Chúng tôi ngồi vào bàn ăn gỏi vịt trộn bắp
chuối và cụng vài ly đế sủi bọt…Một lúc sau chị Tư bưng lên một dĩa xào bốc
khói. Chị nói: “Hôm nay tôi đãi dượng món
nầy rất đặc biệt”. Chị đặt dĩa xào trên bàn ngay trước mặt tôi.Tôi kêu… “Ồ!
Nấm mối!”. Một dĩa nấm mối xào với gan mề vịt. Khói bốc xông lên mùi thơm ngào
ngạt. Chị nói: “Tui biết dượng thích món
nầy mà”. Anh Tư giục tôi: “Cầm đũa gắp
một miếng đi dượng”. Tôi cầm đũa gắp một miếng nấm bỏ vào miệng nhai. Ôi!
Mùi hương cũ… mùi hương nấm mấy mươi năm mới ăn lại. Anh Tư đưa ly lên ngang
mày. Tôi cũng cầm ly lên cụng ly với anh. Tôi uống một cái ngót …Khà… khà…Ngon
thiệt đó anh Tư!
Bây giờ ngồi viết mấy dòng nầy thì…Cậu
má không còn nữa. Anh Tư ra đi cách nay mấy năm và chị Tư cũng mới ra đi vài
tháng nay. Thời gian không dừng lại. Biến đổi cuộc đời: Còn-Mất tiếp diễn. Thế
gian là một chuỗi dài biệt ly…nhưng hương nhớ vẫn là một. Khi cảm tính con người
chưa mất thì sự hồi nhớ sẽ còn ở trong tâm hồn.
(
Tháng Bảy Cali-2013)
No comments:
Post a Comment